Câu chuyện này kể về sự việc xảy ra trong một lần đi câu trên biển.
Vào khoảng tháng Sáu, tháng Bảy hàng năm, là mùa câu mực ống của người dân vùng duyên hải Quảng Đông.
Đó là những con mực dài và nhỏ, người Quảng Đông gọi nó là mực ống.
Mực ống là loại hải sản dễ câu nhất, lúc câu không được nói to, câu mực không phải chú ý nhiều, có thể vừa ngồi câu, vừa uống rượu tán phét.
Đặt một cái bếp nhỏ ở đầu thuyền, một nồi nước, mực ống vừa bắt lên, rửa sạch, thả thẳng vào, thêm một ít gia vị, thế là có ngay một nồi mực tươi, đơn giản là tươi đến rụng hết cả mí mắt.
Trước kia, lúc còn ở Thâm Quyến, cứ đến thời điểm này, tôi đều phải đi câu một đêm.
Ôi, nhớ cái món mực ống với vải tươi của miền Nam* quá, đương nhiên là bao gồm cả những cô gái “tươi” nơi đây nữa.
(Miền Nam này là ở miền Nam Trung Quốc nhé.)
Được rồi, chúng ta tiếp tục câu chuyện nào.
Đây cũng là câu chuyện về câu mực ống, có điều không được đẹp như kể trên, bởi vì khi chúng tôi đi là vào lúc trước và sau trận bão.
Những khi ấy, ngư dân lâu năm tuyệt đối không ra biển vào buổi tối, đặc biệt là đi câu đêm.
Bởi vì các ngư dân trong nghề có câu: Trước và sau cơn bão, không được câu đêm, bởi thứ câu lên có khi không phải cá.
Không là cá, vậy chứ cái gì?
Có người nói là ác quỷ.
Chuyện này xảy ra tầm ba, bốn năm trước, lúc đó vừa hết bão, tôi có một người bạn gọi là Đinh Đại đến rủ tôi đi câu mực.
Cậu bạn này là người Hà Bắc, sớm nghe danh mực ống đã lâu, nhưng lại gặp phải bão, đợi lúc bão vừa dứt, cậu ta lập tức bay qua tìm tôi.
Không ngờ rằng, sau cơn bão, các lão ngư dân không ai chịu đi câu, trả bao nhiêu tiền cũng không đi.
Chính vào lúc chúng tôi chán nản định quay về, có anh chàng mặc áo bông chủ động đi tới, nói cậu ta tối nay có thể đưa chúng tôi ra biển, chỉ là giá có hơi cao chút thôi.
Chúng tôi liếc nhìn qua chiếc thuyền. Đó là một con thuyền cũ kỹ, được làm từ gỗ liễu sam trăm năm, phía dưới sơn màu đen, toàn bộ đều quét dầu trẩu*, trông khá chắc chắn.
(Dầu trẩu": dầu ép từ hạt trẩu, được sử dụng để pha sơn và quét lên vải nhằm chống nước)
-
Chuẩn bị ra khơi, gã áo bông miệng lẩm bẩm gì đó rồi ôm một cái khám thờ vào khoang thuyền, nói đó là Hải thần của bọn họ, sẽ phù hộ chúng tôi.
Lúc đó, tôi cũng không để chuyện này trong lòng, còn cười nói cậu ta còn trẻ mà đã mê tín, không ngờ rằng, cuối cùng Hải thần này còn thật sự cứu chúng tôi một mạng.
Càng không ngờ rằng, vị Hải thần này ấy vậy mà là vật sống, hơn nữa còn là một nhân vật trong truyền thuyết!
Gã áo bông lắp động cơ vào đuôi thuyền, khởi động máy, chiếc thuyền ùn ùn ra khơi, đi gần hai tiếng đồng hồ, cuối cùng cũng tới.
Cậu ta dừng thuyền, lấy ra một chiếc đèn, cắm điện, ánh đèn lập tức chiếc rọi cả một khoảng, nhìn xuyên qua có thể thấy tôm cá đang bơi trong nước.
Mặt biển phản chiếu vô vàn ánh sao, bầu trời xanh u ám, nước biển âm trầm như mực, gió biển thổi qua mang theo mùi muối, khi thấy những dải sao trời từ xa, bên cạnh những tảng đá ngầm đen láy, chúng tôi lập tức trở nên phấn khởi.
Tôi dạy Đinh Đại cách câu mực.
Trước tiên phải buộc chùm câu vào dây, sau đó lấy mồi câu ra, móc vào, quăng cần xuống nước, dùng tay cảm nhận cử động của dây câu, nếu phía dưới có mực cắn câu thì từ từ kéo lên là được.
Mực ở đây thật sự rất nhiều, cơ hồ cứ quăng mồi xuống là lại cắn câu. Nhẹ nhàng kéo dây lên, nhìn thấy một bóng mờ màu tím nhạt từ từ nổi lên mặt nước, chẳng khác nào một đóa hoa sen từ đáy đại dương.
Đinh Đại vui đến mức nhảy cả lên người gã áo bông nhưng lại bị cậu ta đẩy ra chỗ khác.
Cùng lúc đó, con mực đang cắn câu phun ra một tia mực đen, mém chút nữa là phun hết lên người của Đinh Đại rồi.
Đinh Đại vui khỏi nói, đứng sát bên người tôi, lại một lần hạ dây câu xuống, bắt đầu kéo từng con mực lên.
Gã áo bông đưa chúng tôi mỗi người một chai, cụng một cái, ngửa cổ uống ừng ực, một đoàn liệt hỏa từ yết hầu trôi xuống, cả người như cây đuốc mới được châm lửa, một hồi đã bắt đầu ấm lên.
Gã áo bông nói: ”Trong khoang thuyền có bếp, có cả miến nữa, tôi mang mực đi rửa, làm cho hai anh một nồi miến hải sản tươi, này mới gọi là ‘tươi’ chớ lị!”
Tôi cũng cười, nói: “Còn nghe nói trước và sau cơn bão không thể đi câu, đây không phải là có cả nùi để câu sao?!”
Gã áo bông hơi lo lắng nói: “Trước và sau cơn bão thực ra có rất nhiều cá, người ta bảo không thể câu đêm là bởi vì sợ câu phải thứ khác.”
Tôi hỏi: “Là thứ gì?”
Cậu ta không nói gì, chỉ nhìn mặt biển với vẻ lo lắng, bảo đi lấy miến rồi quay vào khoang thuyền.
Lúc này, Đinh Đại hét lớn: “Có một con to này!”
Ngoảnh ra xem, dây câu bị kéo rất căng, tưởng chừng sắp đứt.
Cậu ta tinh thần hăng hái, cởi áo, tay không kéo dây, đọ sức với vật dưới nước.
Quả nhiên là một con mực lớn, đầu to bằng cái chảo, giãy dụa trong nước, bị Đinh Đại mạnh mẽ kéo một cái, quăng mình lên boong thuyền.
Đến lúc chúng tôi đi tới, lại phát hiện trên sàn thuyền chỉ có một vệt nước thấm lớn, con mực đâu mất tiêu rồi.
Tìm khắp boong thuyền, thậm chí mở cả thùng đựng mực ra xem, boong thuyền trống trơn, đích thực là không có.
Sự việc bắt đầu trở nên tà môn rồi.
Lúc này, Đinh Đại đẩy đẩy tôi, sắc mặt cậu ta rất nghiêm túc, chỉ xuống mặt biển đen ngòm, dùng khẩu hình từ từ nói một chữ: “Quỷ.”
Nói không sợ thì là giả, ngẩng đầu nhìn lên, bầu trời trong không một gợn mây, ánh trăng mờ mịt*, mấy ngôi sao nhỏ vụt sáng vụt tắt, phía dưới là biển, trông chẳng khác nào một vực sâu không đáy, chiếc thuyền nhỏ lênh đênh giữa đại dương, nước có thể nuốt chửng chúng tôi bất cứ lúc nào.
(Gốc: 毛月亮, là hiện tượng trời trong không mây, có trăng nhưng lại không sáng, rất mờ.)
-
Một màu đen sì dưới nước, ai biết được rốt cuộc có cái quỷ gì?
Tôi cũng hơi khẩn trương, gào họng gọi gã áo bông kia ra, kể đại khái câu chuyện cho cậu ta hay.
Cậu ta nghe xong, biểu tình quái dị: “Hai vị đại ca này, không phải em không tin hai người, nhưng con mực đầu to bằng cái chảo, chí ít cũng phải nặng gần ba mươi cân, cần câu của hai người không thể nào kéo lên được.”
Đinh Đại nói: “Không đúng! Mực ống cùng lắm chỉ nặng tầm năm cân, làm sao to như thế được!”
Gã áo bông nhíu mày suy nghĩ, đột nhiên vỗ đùi bốp một cái, đứng thẳng dậy, nói: "Bỏ mẹ!"
Cậu ta bước nhanh ra khoang thuyền, trống trơn chỉ có một thùng nhựa trắng nằm đó.
Xoay thùng lại, bỗng nhìn thấy một cái đầu tròn màu đỏ tím, bám vững chắc vào thành thùng, chính là con mực thần bí biến mất vừa nãy!
Tôi không nhịn được hít sâu một hơi: “Con mực này thật sự thành tinh rồi, vậy mà còn biết trốn ở ngoài thùng, khó trách chúng tôi không tìm thấy nó!”
Nhưng gã áo bông lại nói: “Đây không phải mực mà là bạch tuộc.”
Cậu ta nói: "Đầu mực có hình thoi, đầu bạch tuộc thì hình tròn, thân mực vừa dài vừa to, bạch tuộc chỉ có mỗi cái đầu, những bộ phận khác nhỏ hơn. Vì vậy hai người bảo đầu nó to bằng cái chảo cũng không phải nói ngoa. Tôi nghĩ hai người nhìn lầm, quả nhiên là bạch tuộc."
Cậu ta nói với chúng tôi rằng: “Bạch tuộc đắt hơn mực nhiều, đặc biệt là vào thời điểm này, có rất nhiều chỗ dùng. Nó có thể câu nhiều thứ.”
“Câu gì chứ?”
“Câu đồ cổ!!!”
Giác mút trên xúc tua bạch tuộc cực kỳ khỏe, mà nó lại thích ở những nơi chật hẹp, cho nên ngư dân xưa thường buộc lên người bạch tuộc một sợi dây nhỏ, thả nó vào nước, loài vật này đặc biệt thích chui vào bình hoa, đó chính là đồ cổ rồi.
Có điều loài này cũng chỉ là báo trước điềm tốt, không hẳn là thật, khu vực này không có thuyền bị chìm dưới nước, con bạch tuộc biết đi đâu mà tìm bình hoa, cùng lắm cũng chỉ có nồi sắt cũ gì đấy thôi.
Gã áo bông lại rất nghiêm túc mà nói: “Dựa theo quy định của bọn họ, không cần biết sẽ câu được thứ gì, trước khi ngư dân lên bờ đều phải cho nó ăn no bụng, sau đó thì phóng sinh.”
Cậu ta còn nhấn mạnh: "Anh phải tôn trọng nó, nó mới giúp đỡ anh, đây cũng là quy tắc của đại dương."
Lời này của cậu ta, ngược lại tôi tin.
Kể từ lúc câu được bạch tuộc, không có con mực ống nào cắn câu nữa, Đinh Đại tức đến hậm hực.
Gã áo bông nói: “Câu mực chính là như vậy, mực lên rất nhanh, đi cũng không hề chậm, khoảng hai tiếng đồng hồ thôi là mực trong khu vực này đã lặn xuống tầng nước sâu hơn hết rồi, cũng chẳng câu được nữa.
Cậu ta hướng dẫn bọn tôi câu cua.
Câu cua còn dễ hơn cả câu mực, lấy ruột gà làm mồi, bỏ vào trong một quả cầu dây thép, thả xuống nước là được, rất nhanh đã có cua đến chui vào.
Tôi với Đinh Đại làm mấy quả cầu dây thép, bắt đầu câu cua, chẳng mấy chốc đã bắt được mười mấy con, bỏ vào trong thùng nhựa.
Lại câu thêm một hồi, tôi bỗng cảm thấy đầu ngón chân đau nhói, lấy đèn điện thoại ra soi, phát hiện là một con cua nhỏ đang dùng càng kẹp ngón chân tôi, chính là đang dùng hết sức để kẹp.
Tôi nhanh chóng kéo nó ra, dặn Đinh Đại chú ý, đừng ném cua lung tung.
Không ngờ anh ta lại giận rồi, còn bảo rằng đang muốn nói với tôi đây, mấy con cua rơi đầy rẫy ra kìa, đều sắp bò hết lên cả người anh rồi.
Tôi cảm thấy có gì đó không đúng, liền bật đèn lên mà xem, phát hiện ra không biết từ khi nào, trong khoang thuyền khắp nơi đều là cua, con lớn con nhỏ đang bò tới bò lui.
Đinh Đại dùng đèn pha chiếu lên khoang thuyền, rồi phấn khởi kêu lên: “Là mấy con cua nó tự bò lên đấy!!!”
Tôi cũng phấn khởi theo, mười mấy năm đi câu, chỉ nghe qua cá chủ động cắn câu thôi, đây là lần đầu tiên tôi nghe nói cua chủ động bò lên thuyền đó trời!
Đang vui mừng thì gã mặc áo hoa đi đến, nghe được câu chuyện này, khuôn mặt lập tức biến sắc, cái nồi đang cầm trong tay cũng rơi xuống đất.
Anh ta nói với chúng tôi, nhanh chóng thu cần câu lại, hôm nay không được câu nữa, kêu chúng tôi phải trở về ngay!
Tôi thấy sắc mặt anh không ổn, liền vội hỏi anh có chuyện gì?
Anh nói là: “Những con cua chủ động bò lên thuyền, là điều rất cấm kỵ đối với ngư dân, đây rõ ràng ám chỉ dưới đáy biển có thứ gì đó rất ghê gớm, khiến chúng không dám ở dưới biển nữa, đến chết cũng không sợ mà bò lên thuyền!”
Anh lại lẩm bẩm nói: “Quả nhiên trước và sau cơn bão đều không nên ra biển mà, trách là trách anh quá tham lam thôi.”
Nhìn biểu hiện lạ lùng của anh, khiến tôi và Định Đại cũng khẩn trương theo, ai dám câu nữa cơ chứ, nhanh chóng thu cần câu lại thôi, ai ngờ trong lúc đang thu con bạch tuộc lại thì phát hiện dây câu bị kéo căng ra, con bạch tuộc như tìm được thứ gì đó.
Tôi hỏi gã mặc áo hoa, có cần phải cắt đứt dây câu không?
Anh ta lắc đầu, dây câu trên người con bạch tuộc này, nhất thiết phải kéo về, không thôi thì chẳng sống được bao lâu nữa đâu.
Chúng tôi bắt đầu từ từ kéo dây câu về, phía bên đầu dây câu không biết là gì mà nặng vô cùng, mà nó còn giãy lên từng hồi, như một vật sống vậy.
-
May thay dù thứ đó có nặng, nhưng không nhốn nháo, thuận thế thì có thể từ từ lôi nó lên được.
Đợi tới lúc nó nổi trên mặt nước, chỉ có thể thấy được một thứ gì đó đen sì, to cỡ cánh tay cũng một người, trạng thái có chút kỳ lạ, không biết là loài cá gì nữa.
Đang lúc gắng sức kéo nó lên thì gã áo bông bên cạnh liền biến sắc hô to: “Đừng!!! Đừng bao giờ kéo nó ra khỏi nước!!!”
Nói xong, anh ta liền xông tới, mạnh bạo giật lấy cần câu trên tay tôi, một phát vứt nó ra xa.
Tiếp đó, anh nhìn chằm chằm vào mặt nước, được một hồi mới hoảng hốt chạy đến khoang sau, khởi động máy phát, kéo một cái nhưng không động tĩnh gì, lại kéo thêm một cái nữa thì chiếc thuyền nhỏ mới ùn ùn khởi động.
Anh ta quá hoang mang rồi, chỉ lo khởi động chiếc thuyền mà quên mất đi phương hướng, chiếc thuyền va phải vào tảng đá ngầm, nếu không nhờ Đinh Đại lớn tiếng nhắc nhở, để anh kịp thời thay đổi phương hướng, không thì xảy ra chuyện lớn là cái chắc.
Tôi cũng tự cảm nhận được đích thực có gì đó không ổn cho lắm, nên cũng chẳng nói gì thêm nữa, cùng Đinh Đại ngồi trên khoang thuyền thủ thỉ với nhau, vừa chú ý đến nhất cử nhất động của anh ta.
Chiếc thuyền đi theo một hướng khác cũng được một hồi lâu, anh ta vẫn chẳng nói một lời nào, cho đến khi thấy được bờ biển thì mới thở phào nhẹ nhõm. Khi thuyền vừa cập bến, anh ta ôm cái bài vị rồi nhảy lên bờ.
Vừa mới chạm đất thôi là anh ôm khám thờ liên tục khấu đầu, cảm tạ Hải Thần gia gia cứu mạng.
Sau đó bắt đầu đi dọc theo bờ biển rắc gạo, lại thắp một nén nhang, sau một hồi lâu mới quay sang chúng tôi, nói loạn cả lên rồi xin lỗi.
Tôi vỗ vai anh trấn an, nói: “Tiểu huynh đệ, chuyện này cũng không trách anh được. Ở núi thì có quy tắc của núi, ở biển có quy tắc của biển. Nhưng mà, tôi cũng phải hỏi một câu, cái thứ lúc nãy vừa câu lên được, rốt cuộc nó là gì vậy?”
Gã áo bông cả kinh kêu lên, giọng nói kèm theo sự nghẹn ngào, hỏi: “Hai người không nhìn ra gì à???”
Tôi liền lắc đầu: “Lúc nãy chỉ thấy thứ gì màu xám thôi, chứ không có nhìn kỹ.”
Gã áo bông lau mồ hôi trên trán rồi lầm bầm nói: “Không nhìn thấy là tốt, không nhìn thấy là tốt…”
Nghe anh nói vậy, tôi bắt đầu hứng thú, thôi thì lôi anh ta đi đến một quán rượu, uống được vài ly cuối cùng cũng cạy miệng anh kể cho chúng tôi nghe cái con lúc nãy là gì.
Anh nói: “Tôi không phải là người Quảng Đông, mà là người nhà thuyền* ở bên Hải Nam. Người nhà thuyền chúng tôi bao đời đều là ngư dân, đương nhiên là có nhiều quy tắc nguy hiểm, có những quy tắc còn quan trọng hơn cả mạng sống của mình.”
(Người nhà thuyền: người sinh sống trên thuyền, không nhà cửa.)
“‘Ra biển ba phần mạng, lên bờ cúi đầu hành’. Chúng tôi tin vào Hải Long Vương, hát ‘Hàm Thủy Ca’*, cúng Hải Thần, sợ nhất chính là ma da nhập xác. Chúng tôi ở trên biển, có nhiều khi thấy người rơi xuống nhưng lại không dám cứu, sợ là bị ma da nhập, sẽ hại chết hết người trên thuyền. Mấy cái chuyện như vầy, đối với hai người mà nói thì có thể sẽ rất nực cười. Nhưng đối với chúng tôi, đó là kinh nghiệm được đổi từ cái mạng của những người đã mất, không thể không tin được."
Nói tới đây, anh gằn thấp giọng lại nói: “Vừa nãy câu lên được, đó chính là ma da đấy!!!”
Tôi và Đinh Đại giật bắn người, đó cũng chỉ là con cá thôi mà, sao lại là ma da được chứ!?
Anh nốc cạn chén rượu, hỏi: “Vị huynh đệ này, anh thử nghĩ lại xem, cái thứ lúc nãy… nó có phải như những con cá bình thường mà mình câu được không?”
Tôi hồi tưởng lại một chút, nói: “Đúng thật là có gì đó hơi khác, nó như là càng lúc càng dùng lực rồi đột nhiên nhảy tót lên, sau đó lại ngừng, lại nhảy tót lên lần nữa, rồi lại ngưng."
Gã áo bông cười, sắc mặt trắng bệch rồi nói: “Huynh à, anh cảm nhận thử đi, có phải là như vậy không?”
Gã dùng tay giật lấy tay áo tôi, đột nhiên kéo một cái rồi ngưng lại, tiếp theo đó lại kéo thêm cái nữa, rồi ngưng rồi, xong nhìn vào tôi.
Tôi hồi ức một chút rồi nói: “Đúng, đúng, chính là cảm giác này đây!!!”
Gã áo bông nói: “Vậy thì đúng rồi! Cái thứ mình câu được lúc nãy, chỉ là một cánh tay người đang thối rữa thôi…”
Lúc đó tôi chợt hoảng hốt, khi đó chỉ là cánh tay người đang thối rữa, vậy thì đúng thật là có người đang ở dưới nước kéo dây câu rồi.
Nghĩ lại bàn tay thối rữa lúc nãy đang kéo chặt lấy dây câu, đang định từ từ kéo nó lên từ giữa biển, rốt cuộc dưới đó có phải có thêm cái xác đang thối rữa không, nghĩ tới là tôi muốn nôn hết cả ra.
Gã áo bông một bên bóp vai cho tôi, một bên nói: “Tổ tiên phù hộ a, cũng may là lần này có đem theo Hải Thần, nếu không thì chắc chắn chết ngoài biển rồi.”
Lần này thì tôi với Đinh Đại cũng đã tin rồi, còn hỏi anh Hải Thần là gì sao mà linh thế?
Gã áo bông cũng uống quá chén rồi, thấy chúng tôi vẫn không tin tưởng, bản thân cũng rượu vào quá trớn, thôi thì đem Hải Thần ra cho chúng tôi xem luôn.
-
Có sao thì nói vậy, ánh mắt đầu tiên khi nhìn thấy Hải Thần, tôi không chỉ không kinh ngạc mà ngược lại sự phẫn nộ cuồng nhiệt ập tới, khiến tôi túm lấy cổ áo của gã áo bông, muốn đấm vào mặt hắn ngay lập tức.
Bởi vì, dưới lớp vải đen đó, là một cái vò nhỏ trong suốt, trong cái vò đó có một bào thai to cỡ một trái banh, thân hình cuộn lại, được ngâm trong một loại dung dịch gì đó.
Tôi lúc đó thật sự rất phẫn nộ, bọn họ cư nhiên đem bào thai làm Hải Thần, có còn là người không!?
Kết quả là tôi chưa đấm được cái nào thì bị Đinh Đại cản lại, kêu tôi xem kỹ rồi hẵng tính!
Kìm nén sự chán ghét, tôi liền nhìn kỹ lại thêm lần nữa, nó đích thực là một cái thai nhi, một bào thai đang nhắm mắt, còn giữ lại tư thế cuộn người trong bụng mẹ, kể cả những nếp nhăn trên người đều lộ rõ mồn một, phía dưới nối liền cuống rốn có chút mơ hồ, nhìn không rõ là gì.
Lúc này Đinh Đại thấp giọng nói: “Nó không có chân!”
Tôi hoang mang nhìn xuống, mới phát hiện ra là do mình nhìn nhầm rồi, nửa phần dưới của đứa bé đó không phải là cuống rốn, mà là thứ gì đó như đuôi cá vậy, cái đuôi rất dài, có một lớp vảy cá mỏng phủ trên đuôi, cong lại tự nhiên, cho nên ban đầu tôi mới nhìn nhầm thành cuống rốn.
Tôi hoảng hồn một phen, thì ra vật được cung phụng trong cái vò đó, lại đích thị là Hải Thần!
Mà vị Hải Thần này lại là một nhân ngư không giả vào đâu được!!!
Gã áo bông lúc này cũng đã tỉnh rượu, liền vội vã lấy miếng vải đen đậy cái vò đó lại, rồi nói bây giờ đã khuya rồi, anh phải lập tức trở về thôi.
Còn tôi và Đinh Đại cũng trở về Thâm Quyến trong đêm đó.
Trên đường về, chúng tôi ai nấy đều chất chứa bầu tâm sự, chẳng ai nói gì với ai cả.
Lúc chia tay, anh nói rằng: “Tôi là người Đường Sơn, có không ít người thân đã trải qua những trận động đất lớn tại đó. Họ nói rằng, thật ra trước khi động đất, ở địa phương đều có những dự báo trước. Những con rắn lớn kết thành bầy bò trên mặt đường, mặc sức cho xe chạy cán ngang, né cũng né không được; đàn dơi bay ra giữa ban ngày, va vào cột điện mà chết; bầy cá, tôm trong suối đều tụ lại nhảy hết lên bờ xếp thành từng mảng, toàn là cá tôm đã chết.”
Anh còn nói: “Những loài vật đó, cũng như những con cua từ biển chui lên vậy, cũng không cần mạng nữa rồi.”
Tôi hỏi anh: “Như vậy là ý gì?”
Anh hỏi ngược lại tôi: “Có nhìn thấy vị Hải Thần đó, nó còn sống không?”
Tôi càng thấy kỳ lạ hơn, nói rằng rõ ràng Hải Thần đó đã chết rồi mà, cái vật đó thì sao còn sống được chứ?
Anh ta lại lắc đầu, trong miệng lép nhép cái gì mà… “Đã đến lúc rồi, đã đến lúc rồi.”
Lại qua vài ngày sau, tôi đến công ty anh để tìm anh đi ăn cùng, nhưng lại được biết là sau khi cùng tôi đi câu cá về, liền thôi việc, giấy tờ từ chức cũng không làm, người thì mất tích, công ty vẫn còn đi khắp nơi để tìm anh đây.
Thật đấy, cho tới tận bây giờ, anh ta vẫn chưa xuất hiện qua.
Tôi ngẫm mãi vẫn không hiểu, anh có thể đi đâu được chứ, rồi khi anh nói câu “đã đến lúc rồi”, lại là có ý nghĩa gì đây?...