Mưa táp đóa hoa tàn xuống bùn, rồi lại giã nát những cánh hoa mong manh của nó. Gió thốc qua rèm trúc, khẽ chao đảo cảnh tượng trong phòng, làm cho người ta nhìn không rõ.
“Tôi đến Hà châu tìm được nhà tục* của đại sư, xác thực sau khi quay về Hà châu, đại sư đã bị Nhan thị dùng cớ khám bệnh đưa đi,” Cốt Tân lấy hơi, “nhưng trời không tuyệt đường người, Ký Nhiên!”
(*Nhà cũ của người đã đi tu.)
Tiếng “Ký Nhiên” ấy của Cốt Tân khiến tim chúng cận vệ thót lên tận cổ họng, nhưng hắn không nói tiếp.
Ký Nhiên*? Ký Nhiên cái gì?
(*”Ký nhiên” có nghĩa là nếu đã.)
Lịch Hùng đang móc mứt quả trong lọ ăn, bỗng dưng trông thấy một quả trứng nhẵn bóng thình lình xuất hiện ở cuối hàng lang. Quả trứng nọ quấn trong bộ áo tăng to sụ, hai tay xách tay áo chạy bước nhỏ tới, lúc đi qua Lịch Hùng còn không quên liếc lọ mứt một cái. Mải liếc không để ý dưới chân, thế là vấp ngã “oạch” vào trong rèm.
“Ui cha!” quả trứng nằm bò ra ngửa đầu lên, nói, “thỉnh an Nhị gia!”
Mọi người định thần lại nhìn cho kỹ, dè đâu lại là một nhóc hòa thượng mười bốn mười lăm tuổi, còn nhỏ hơn cả Đinh Đào. Nhóc hòa thượng nọ kéo tay áo lên chắp tay, sắc mặt trang nghiêm, niệm: “A di đà phật!”
Nó nói giọng Hà châu nên chữ “di” đọc không rõ, thành ra nghe như “A nhĩ đà phật”.
“Nhị gia,” Cốt Tân nói, “đại sư chịu quay về Hà châu, chính là vì đứa nhỏ này.”
“Ừa ừa,” Ký Nhiên gật đầu như đúng rồi, “chính là vì tiểu tăng.”
“Đại sư tuổi đã cao, tự biết chẳng còn bao lâu nữa sẽ từ giã cõi trần, nhưng Ký Nhiên còn nhỏ quá nên đại sư mới quay về Hà châu, gửi nó cho họ hàng xa của nhà tục, nào ngờ đúng lúc đó lại đụng mặt Nhan thị.”
“Nhan công tử bảo muốn đưa tiểu tăng đi chơi,” Ký Nhiên chớp đôi mắt tròn xoe trong veo, “tiểu tăng phải xách nước, gã không chờ được nên mời sư phụ đi trước.”
Tiêu Trì Dã trông Ký Nhiên non choẹt như thế, bao nhiêu cơ may còn sót dập tắt hoàn toàn.
Hình như Cốt Tân biết Tiêu Trì Dã đang nghĩ gì, nói tiếp: “Tuy Ký Nhiên còn nhỏ tuổi, nhưng lại sâu sắc kế thừa được chân truyền của đại sư, y thuật cao minh, để y chẩn bệnh cho phủ quân, Nhị gia…”
“Ơ ơ,” Ký Nhiên lắc đầu nguầy nguậy, “không được, đom đóm sao so được với mặt trăng? Tiểu tăng với sư phụ, giống như suối nhỏ với đại dương vậy, không thể so được!”
Mặt thằng nhỏ còn chưa mất đi sự bụ bẫm của trẻ con, không chỉ mặt mũi ngây thơ mà cách nói năng cũng rất ngây thơ. Lịch Hùng quên luôn cả ăn mứt, ngoẹo đầu đứng cạnh cửa cùng Đinh Đào ngắm nghía quả trứng luộc này.
Cốt Tân xách gáy Ký Nhiên lên, nói: “Ngươi qua xem đi!”
***
Ký Nhiên bắt mạch cho Thẩm Trạch Xuyên, nó hết cau mày rồi lại lầm bầm.
Tiêu Trì Dã hỏi khẽ: “Sao?”
Ký Nhiên rủ mắt nhìn cổ tay Thẩm Trạch Xuyên, một hồi lâu thật lâu sau mới bảo Tiêu Trì Dã: “Phủ quân trắng thật đó.”
Cái mặt trắng trẻo của Ký Nhiên không hề có chút vẻ dò xét nào. Mắt nó trong vắt, khen Thẩm Trạch Xuyên rất đỗi tự nhiên như đang khen một dòng suối trong, khen một dải mây trắng, tính chiếm hữu đáng sợ của Tiêu Trì Dã không tìm thấy chỗ để phát tác ở đây.
“Cơ thể phủ quân yếu là do uống thuốc hỏng người, nhưng cũng may nửa năm nay chăm sóc chu đáo, sinh khí vẫn còn.” Ký Nhiên vén tay áo lên, cầm bút ngẫm nghĩ một thôi một hồi rồi viết đơn thuốc xuống tờ giấy trắng.
Tiêu Trì Dã vẫn chưa dám yên lòng, hỏi tiếp: “Cứ tiếp tục dùng thuốc là được rồi à?”
“Chắc chắn không được đâu, ngoại thương cũng là thương, eo bị đâm mà. Nếu đêm nay phủ quân bất tỉnh hay là ngưng thở một lúc ngắn thì Nhị gia cũng chớ cuống.” Ký Nhiên thương cảm, “Tiểu tăng phải khuyên Nhị gia, sau này đừng để phủ quân dùng võ nữa. Thân thể của phủ quân thực sự không hợp dùng quyền pháp cương mãnh như vầy, đánh ra một quyền, ài, người khác đau đấy, nhưng mà phủ quân cũng phải đau theo, rất dở. Cầm cự qua hai đêm này chờ cho hết sốt, rồi phải chăm dưỡng thêm mấy năm nữa cơ.”
Ký Nhiên đưa đơn thuốc cho Tiêu Trì Dã.
“Nửa năm này tốt nhất phủ quân nên dùng tay trái viết chữ.”
Ký Nhiên tiện đà nhìn luôn lòng bàn tay Tiêu Trì Dã, nói: “Nhị gia tráng kiện, cũng phải chú ý nghỉ ngơi, vết thương đó không ngâm nước được đâu.”
Tiêu Trì Dã hỏi: “Mấy năm là bao lâu?”
Kỳ Nhiên sờ đầu, nói: “Ta cũng không biết nữa… Nói chung là cứ chăm đi.”
Tiêu Trì Dã nắm đơn thuốc, nhìn về tấm rèm. Thẩm Trạch Xuyên thở đều đều, ngủ mê mệt, cổ tay chìa ra lấp ló trong căn buồng mông lung, trắng như Ký Nhiên đã nói vậy, trắng đến nỗi tưởng như chỉ chạm vào là đã tan.
***
Trong cơn mê man, Thẩm Trạch Xuyên mơ một giấc mơ, mơ thấy hồi y mười lăm tuổi đứng trước cổng Khuất đô chờ sư phụ, sư nương với Kỷ Mộ đến đón y về nhà. Y bọc cái áo khoác nhỏ Hoa Sính Đình may, ngắm những bông tuyết lơ thơ vi vu rải xuống từ trên tường thành.
Kỷ Mộ nằm bò trên đầu tường, gọi y: “Xuyên nhi, muốn đi đâu?”
Thẩm Trạch Xuyên bấu cái áo mới, ngơ ngác nói: “Về nhà ạ.”
Kỷ Mộ ngẩng lên cùng trông về Đoan châu với y, nói: “Vậy chờ chút nhé, cha tới ngay giờ.”
Thẩm Trạch Xuyên không nhớ nổi tại sao mình lại phải đứng đây, y chờ từ tận hửng đông đến tối muộn, rõ ràng là tuyết đang rơi, vậy mà y lại thấy rất nóng.
Kỷ Mộ xoa xoa tay: “Ca hơi lạnh, đệ muốn nhóm lửa không?”
Thẩm Trạch Xuyên lắc đầu: “Đệ nóng lắm.”
Kỷ Mộ bèn nhóm một ngọn lửa ở đầu tường, anh hơ tay cho ấm, tám phiếm mấy câu với Thẩm Trạch Xuyên. Anh bảo: “Chuyến này về là ca lấy vợ được rồi, mấy năm may mẹ cứ nhắc mãi thôi.”
Bọn họ chờ lâu thật lâu, eo Thẩm Trạch Xuyên đau, cẳng chân đau, chỗ nào cũng đau. Y lau mồ hôi, vẫn mãi trông về phía trước.
Kỷ Mộ thấy trời đã tối, bỗng lẩm nhẩm: “Cha không tới rồi.” Đống lửa anh đốt đã cháy sạch, ngồi dậy khoác chiếc áo lính đặt bên cạnh vào, ngả lưng xuống đầu tường, nhe răng cười một cái với Thẩm Trạch Xuyên, “Xuyên nhi này.”
Thẩm Trạch Xuyên ngước lên, bước mấy bước, nhìn anh.
Kỷ Mộ nói: “Còi lệnh của ca thổi rồi, không đợi được nữa, phải đi đây.”
Thẩm Trạch Xuyên gật đầu, gặp mãi đã quen: “Thế ca đi đi, đệ sẽ bảo mẹ.”
Vẻ xót xa trào dâng trên gương mặt Kỷ Mộ, anh thở dài: “Ca lo quá, đệ…”
“Đệ đi từ đây về,” Thẩm Trạch Xuyên chỉ ngón tay về phương xa, “gần lắm à.”
Kỷ Mộ nhìn Thẩm Trạch Xuyên, ánh mắt rất đỗi dịu dàng, anh nói: “Em của ca phải làm sao đây.”
Thẩm Trạch Xuyên nghe thấy tiếng vó ngựa, y hơi nhảy cẫng lên reo: “Ca, sư phụ tới rồi kìa!”
Kỷ Mộ chẳng nói gì, chỉ chống tay cười vậy thôi.
Thẩm Trạch Xuyên ngoái lại, trông thấy một con ưng gộc sải cánh phá chân trời bay ra, rồi sau đó một con ngựa toàn thân đen nhánh, chỉ có khoảng trước ngực màu trắng phi ra. Y dừng bước, nhìn con ngựa kia chạy tới trước người y.
Trên lưng ngựa là một chàng thiếu niên đội mũ sắt, con ưng đậu xuống vai hắn, hắn cởi mũ xuống, đằng sau ấy là một gương mặt không mấy vui vẻ. Hắn cúi người ngắm Thẩm Trạch Xuyên, nói: “Đần mặt ra đấy làm gì? Lên ngựa, Nhị công tử đưa ngươi đi.”
Thẩm Trạch Xuyên mặc kệ hắn, hắn bèn nhảy phốc xuống ngựa, chụp mũ của mình lên đầu Thẩm Trạch Xuyên rồi vác Thẩm Trạch Xuyên lên.
“Ơ,” Thẩm Trạch Xuyên nghẹt trong mũ sắt, nói, “ta phải về nhà.”
Tiêu Trì Dã cong ngón tay búng Thẩm Trạch Xuyên một cái, rất ngang nhiên nói: “Ngươi đi cùng ta.” Hắn bước liền mấy bước, hình như có vẻ giận, “Ngươi không nhận ra ta à?”
Thẩm Trạch Xuyên nói: “Không nhận ra.”
Tiêu Trì Dã giả vờ ném Thẩm Trạch Xuyên xuống tuyết, hắn tung Thẩm Trạch Xuyên lên, giây phút Thẩm Trạch Xuyên hoảng cả hồn lại vững vàng đỡ được. Con ưng gộc sà xuống vai hắn, hắn cười giòn giã nhìn Thẩm Trạch Xuyên.
Thẩm Trạch Xuyên đẩy cái mũ giáp lên, bối rối nhìn hắn.
Bầu trời đang tối mò bỗng dưng bừng sáng, tóc Tiêu Trì Dã phất phơ theo gió, bốn bề thành lũy cản tầm mắt biến mất hoàn toàn, thảo nguyên vô tận trải ngút ngàn dưới chân. Hắn cứ thế bế Thẩm Trạch Xuyên, lại còn tham lam sờ má Thẩm Trạch Xuyên một cái.
“Ta muốn giấu ngươi đi,” Tiêu Trì Dã cao giọng trong gió, “hoặc là cất ngươi vào trong ngực áo ta này.”
Thẩm Trạch Xuyên không nghe rõ, y ngửa mặt lên hỏi: “Ngươi nói cái gì cơ?”
Tiêu Trì Dã nhìn y, hung hăng hôn một cái rõ kêu lên má y, đáp: “Ta bảo ngươi đẹp quá, quá con mẹ nó đẹp, trần đời này sẽ không có ai đẹp hơn ngươi được đâu, ta thề!”
Thẩm Trạch Xuyên che má, gào lên đáp trả: “Ngươi nói dối!”
Tiêu Trì Dã mặc kệ y giãy giụa, ôm y thật chặt, ghé vào tai y nói: “Ta sai rồi.”
Gió ngơi, Tiêu Trì Dã bỗng lớn vụt lên. Bờ vai rộng của hắn che ánh sáng, ôm lấy Thẩm Trạch Xuyên, vừa như mới tỉnh ngủ, lại vừa như còn trong mơ. Mái tóc đã cởi của hắn quấn vào tóc Thẩm Trạch Xuyên, xõa ra trên chăn, ở giữa là một bím tóc nhỏ.
Thẩm Trạch Xuyên nhập nhèm mở mắt, nằm thừ người một hồi lâu, giọng nghe bơ phờ: “Trói lại rồi.”
“Ừ,” Tiêu Trì Dã đưa ngón tay dài nhấc cái bím tóc con lên, “tết tóc làm vợ chồng đấy.”
Thẩm Trạch Xuyên vừa mới tỉnh, sức hẵng chưa lại. Tiêu Trì Dã xoa lưng cho y, nói: “Phải dậy thôi.”
Thẩm Trạch Xuyên được xoa hơi nghiêng mình, nằm sấp lên ngực Tiêu Trì Dã. Tay Tiêu Trì Dã có nốt chai, xoa lên rất dễ chịu. Mắt Thẩm Trạch Xuyên díp lại, vẫn còn không quên giận dỗi bảo Tiêu Trì Dã: “Ngươi ồn quá.”
Tiêu Trì Dã cọ thật mạnh cái cằm lún phún râu lên người y, nói: “Ta bị ngươi hại chết mất thôi Thẩm Lan Chu.”
Thẩm Trạch Xuyên đưa bàn tay phải đã bọc lại thành cái bánh ú chọt má Tiêu Trì Dã, cả hai cứ tự nhiên như thế, sáp lại gần nhau trao một nụ hôn ốm yếu.
Cơn mưa dầm dề suốt mấy ngày đã tạnh, trời Đoan châu lại trong.
Tuy rằng Ký Nhiên rất khiêm tốn, nhưng ba ngày sau Thẩm Trạch Xuyên đã có thể ăn được cháo như đúng hạn. Nhóc hòa thượng đứng bên song cửa, thành kính niệm “A nhĩ đà phật”, lúc Tiêu Trì Dã hỏi nó có muốn thù lao gì không, nó không buồn suy nghĩ chỉ ngay vào lọ mứt của Lịch Hùng.
Tất cả đều thở phào nhẹ nhõm, trước khi Lịch Hùng kịp phản đối đã chuyển cái lọ mứt qua.
***
Trong phòng mở cửa sổ, Thẩm Trạch Xuyên dựa gối nghe Phí Thịnh trình bày.
“Nếu là gián điệp thì đúng là đáng ra không nên để hình xăm rõ ràng trên người như vậy,” tay trái Thẩm Trạch Xuyên cầm báo cáo của Nguyên Trác, đều là những sự vụ quan trọng mấy hôm nay, chúng tiên sinh không tự quyết được, “ý ngươi là, sở dĩ bọn chúng mang hình xăm thằn lằn là để phân biệt với bọ cạp bình thường ư?”
“Thằn lằn thuộc quyền A Mộc Nhĩ, tự xưng là một nhánh của bộ Hãn Xà,” Kiều Thiên Nhai nói, “Trác Lực phải lên chiến trường, có hoa văn không có gì lạ, nhưng lũ thằn lằn lẻn vào mà còn có hình xăm thì chỉ có thể là vì lo mình bị nhận nhầm thôi.”
Tiêu Trì Dã hỏi: “Do Kính bảo sao?”
“Hộ tịch mà thích khách dùng là thật, Phàn châu quả thực có hai người này, nhưng rất có thể là đã bị tráo,” Phí Thịnh nói, “dù gì cũng chỉ biết tên thôi chứ không biết mặt mũi ra sao.”
“Chuyện này cũng chịu thật,” Khổng Lĩnh bình tĩnh nói, “hoàng sách phải khai báo hàng năm, cho dù nha môn các châu có thêm cả chân dung lúc kiểm tra thì cũng không duy trì lâu dài được.”
Nhưng Kiều Thiên Nhai đã suy luận đúng, tại sao thằn lằn trà trộn vào lại phải mang hình xăm? Nhỡ bị tra thì chắc chắn không thoát nổi. Bọn chúng là tư binh của A Mộc Nhĩ, đến cả Trác Lực cũng chỉ là cho Cáp Sâm “mượn” thôi, điều đó chứng tỏ lão ta đặc biệt coi trọng đám thằn lằn này. Nếu quả thực để phân biệt mình với bọ cạp, vậy thì chắc chắn chúng có qua lại với những bọ cạp quanh năm lảng vảng trong nội địa Trung Bác.
“Đoan châu không gần Cách Đạt Lặc, cách A Mộc Nhĩ còn xa nữa, ngựa có nhanh đến mấy cũng không thể truyền tin ngay lập tức được,” Tiêu Trì Dã đã thuộc nằm lòng bản đồ quân sự phía Đông, “chim cắt của Cáp Sâm cũng không thể bay về, hai tên thằn lằn này không phải do A Mộc Nhĩ phái tới.”
A Mộc Nhĩ điều binh đánh Cách Đạt Lặc để chặn lại Thích Trúc Âm, Cáp Sâm không có kế hoạch quay về chi viện trong tình huống xấu nhất, hắn chắc chắn tin Cáp Sâm chết chỉ có thể được truyền đi trong hai ngày này thôi, bởi vì sông Trà Thạch khó vượt, thế nên lão cũng không thể hạ lệnh cho thằn lằn mấy ngày trước được, không kịp.
Diêu Ôn Ngọc thoáng biến sắc: “Nếu thằn lằn là tư binh của A Mộc Nhĩ, vậy thì sẽ không dễ dàng nghe lệnh người khác, nếu không phải A Mộc Nhĩ hạ lệnh ám sát cho chúng thì chỉ có thể là có kẻ đã giả danh A Mộc Nhĩ để hạ lệnh cho bọn chúng.”
Phí Thịnh cau mày: “Thế tức là vẫn còn bọ cạp, hoặc là thằn lằn xung quanh chúng ta, chúng biết chiều hướng của Đoan châu.”
Cao Trọng Hùng luôn là người sốt vó đầu tiên, hắn nói: “Thế chẳng phải gay to rồi sao? Những kẻ đó sẽ đều rất quen thuộc lề lối ở Trung Bác!”
“Nếu đám thằn lằn này đã nằm vùng lâu, kể cả có bằng chứng hộ tịch đi nữa thì cũng vẫn sẽ bị ghi sổ vì có hình xăm,” Kiều Thiên Nhai nói, “bọn chúng mới thâm nhập vào thôi.”
“Nha môn kiểm soát nghiêm ngặt thế cơ mà,” Khổng Lĩnh nói, “bọn chúng mà muốn thần không biết quỷ không hay chui vào thành thì quá khó, phải lọt được qua tầng kiểm tra của cận vệ.”
“Thế thì đúng là có một chỗ có thể,” Thần Dương hơi hành lễ với phủ quân, “bọ cạp ở Từ châu không bị kiểm tra, bọn chúng có thể tự do hành động theo Hải Nhật Cổ.”
Bọ cạp của Hải Nhật Cổ ban đầu chỉ được ở trường săn Bắc Nguyên, chịu sự canh chừng nghiêm ngặt của quân phòng vệ, mãi đến tận lúc bọn chúng đi theo thiết kỵ Ly Bắc lập công ở hố tử thần Trà Thạch, Trung Bác mới cởi trói cho bọn chúng. Nếu thằn lằn trà trộn vào với bầy của hắn, vậy thì chuyện hình xăm thông suốt ngay.
Phí Thịnh tức thì bảo: “Hải Nhật Cổ cũng không đàm phán thành công với bộ Hữu Hùng, chủ tử, hay là tôi…”
“Gấp làm gì? Bộ Hữu Hùng đã rút chạy, lãnh thổ của bộ Thanh Thử giờ đang trống rồi,” Thẩm Trạch Xuyên gấp bản báo cáo lại, bảo Tiêu Trì Dã, “đưa vùng đất đó cho Hải Nhật Cổ đi.”
Tiêu Trì Dã hơi nhướng mày.
“Hải Nhật Cổ thay ta ký kết minh ước với bộ Hữu Hùng, nhưng bộ Hữu Hùng lại phản bội lại minh ước,” đôi mắt mỏi mệt của Thẩm Trạch Xuyên ẩn chứa vẻ ác liệt, “phản bội thì phải trả giá đắt, cái giá này sẽ để Hải Nhật Cổ đi đòi cho ta.”
Sở dĩ Hải Nhật Cổ muốn xúi thằn lằn ẩn nấp giữa đàn bọ cạp của mình đi ám sát, chính là hòng sớm nhen nhóm chiến hỏa. Hắn muốn đất, giống như Đạt Lan Đài vậy, thoạt nhìn cứ tưởng bọn chúng rất nước đôi, kỳ thực đều là những kẻ đang mưu lợi vì mình cả.
Tiêu Trì Dã kết liễu A Xích ở hố tử thần Trà Thạch, bọ cạp Biên Sa như rắn mất đầu, Hải Nhật Cổ không còn đối thủ cạnh tranh, nếu bây giờ hắn quay về đại mạc, hắn sẽ chính là thủ lĩnh duy nhất của những bọ cạp còn sót lại. Đến cả buôn bán với Nhan Hà Như hắn còn dám làm, hắn cũng sẽ có thể quay đầu hợp tác lần nữa với A Mộc Nhĩ khi thấy thế cục biến hóa.
Thẩm Trạch Xuyên mà giết Hải Nhật Cổ thì chỉ là giết một tên bọ cạp đã bị bại lộ, A Mộc Nhĩ có thừa những tên bọ cạp như thế, bởi vậy Thẩm Trạch Xuyên không những không giết Hải Nhật Cổ, mà còn phải cho Hải Nhật Cổ mảnh đất mà hắn ao ước. Y muốn để Hải Nhật Cổ đứng đấy, vững vàng chiếm giữ chiến trường Trung Bác, khống chế hướng chảy của bọ cạp, biến thành mối tồn tại hóc búa cho A Mộc Nhĩ.
Song đồng thời, Thẩm Trạch Xuyên cũng phải cho Hải Nhật Cổ một đòn nhớ đời.
Hải Nhật Cổ muốn lãnh thổ của bộ Thanh Thử, vậy thì trước tiên phải đi giải quyết bộ Hữu Hùng, hắn mà làm thế, mười hai bộ sẽ không dễ dàng chấp nhận hắn nữa, A Mộc Nhĩ sẽ không còn tín nhiệm hắn nữa, hắn sẽ còn phải gánh mối thù của bộ Hữu Hùng, bởi vì kẻ cầm đao hành thích là hắn.
Phủ quân sẽ lợi dụng cho kì cùng.
Thẩm Trạch Xuyên ngồi lâu mệt rồi, trước khi tất cả lui đi, y nói: “Nguyên Trác về đừng nghỉ vội nhé, lát nữa Ký Nhiên qua thăm bệnh.”
***
Tính Ký Nhiên vẫn như trẻ con, nó đi theo sau Cốt Tân nhảy qua vũng nước, thấy cái đầu trọc lốc của mình trong nước thì không khỏi phá ra cười nắc nẻ.
Kiều Thiên Nhai đứng ở cửa đón bọn họ, cũng chắp tay nói với Ký Nhiên: “Mời tiểu sư phụ vào.”
Ký Nhiên đáp lễ. Lúc này sẻ đang cất tiếng hót giữa tàng cây, tiết trời ấm áp, nó mặc áo tăng, đứng giữa muôn mảng trời xanh mây trắng phản chiếu trong từng vũng đọng, bỗng sao lại khiến người ta mơ màng chẳng rõ đâu là trần thế đâu là thiên đường.
“Thí chủ,” Ký Nhiên học theo tư thế của sư phụ, chậm rãi gật đầu với Kiều Thiên Nhai, “thí chủ có phật duyên.”
Kiều Thiên Nhai thấy thú vị, mới nói: “Hồi xưa cũng từng có một hòa thượng bảo ta như vậy, nhưng mà đến bây giờ ta vẫn chưa xuất gia.”
Ký Nhiên nhìn Kiều Thiên Nhai, lúc yên tĩnh, người nó tỏa ra một loại khí chất xuất trần, nhưng ấy không phải cái thứ gọi là không ăn khói lửa, mà là một sự tách biệt vốn sẵn có, nhóc hòa thượng này sạch sẽ nhường ấy, nó dùng một đôi mắt bàng quan nhìn nhân gian.
“Nước biếc không ưu, lăn tăn vì gió; non xanh chẳng già, bạc đầu vì tuyết [1]. Thí chủ đã có nhân rồi, duyên sẽ còn xa ư?” cơn gió thanh phất vạt áo tăng của Ký Nhiên, áo rủ xuống nước, nó nhẹ vỗ tay một cái, trong nét hồn nhiên ấy là một vẻ nghiêm trang vô cùng, dường như đã rất chắc chắn về con đường của Kiều Thiên Nhai.
Kiều Thiên Nhai nghe thấy chuông gió kêu trong làn gió mát, hắn ngoảnh lại, bắt gặp Diêu Ôn Ngọc đang ngồi đó. Trong giây khắc, tay áo Diêu Ôn Ngọc phất phơ theo gió, vậy mà lại gợi lên thứ cảm giác giống như Ký Nhiên dạo chơi giữa chân mây nước biếc.
Ký Nhiên bước tới trước thềm, không hành lễ với Diêu Ôn Ngọc. Trong tiếng chuông gió “leng keng”, nó ngắm Diêu Ôn Ngọc, cuối cùng lắc đầu, nói: “Ta không chữa được cho chân của ngươi, dù sư phụ ta có còn tại thế, cũng không chữa được cho chân của ngươi.”
Ngón tay Diêu Ôn Ngọc đắp lên Hổ Nô đang nằm trong lòng, nói: “Vạn vật vạn pháp, như ảo mộng bọt nước, như sương trần điện chớp, nên như vậy mà nhìn [2].”
Thế gian này nhân duyên tụ hợp biến ảo vô thường, Diêu Ôn Ngọc đã không còn cố chấp với hai chân của mình nữa, từ câu trả lời “Ta vẫn là đứng” ấy y đã giải thoát cho mình rồi. Y đứng hay ngồi không có gì khác biệt, y đã là y, y vẫn là y.
Ký Nhiên thở dài: “Người khác muốn ta giảng Phật ngữ, ngươi thì lại đi giảng Phật ngữ với ta. Hướng chết mà sống, ngươi đã thấy được kết cục rồi, hà cớ chi phải lưu lại nơi đây? Lên núi với ta đi.”
Diêu Ôn Ngọc nói: “Trong lòng ta còn có vạn vật.”
Ký Nhiên nhìn Diêu Ôn Ngọc, nâng ngón tay chỉ về Kiều Thiên Nhai, nói: “Trong lòng ngươi còn có hắn.”
Gió len vào tay áo Diêu Ôn Ngọc, đoạn dây đỏ nơi cổ tay khẽ lay động, y đáp: “Bởi vậy ta cứ mãi là một người phàm.”
Nhân duyên thật kỳ diệu lắm thay, rốt cuộc là từ bao giờ? Có lẽ là từ đêm cầm tay dẫn lối ấy, hay từ câu “Ta hận chết ngươi” ấy, hay phải chăng còn sớm hơn thế, sớm từ ngày xuân tháng Ba chớm nở hôm nao. Kiều Thiên Nhai, Kiều Tùng Nguyệt, hắn là cánh yến chao qua đọng lại một nốt trầm.
Diêu Ôn Ngọc biết tất thảy trên thế gian này đều chỉ là hư vô, những việc y làm hôm nay chẳng hơn gì một cái chớp mắt, thoáng chốc sẽ tan biến trong sông ngân vô tận. Diêu Ôn Ngọc, Diêu Nguyên Trác, y là chiếc lá hóa bùn.
“Ta không có cái gì có thể cho ngươi cả.” Ký Nhiên khẽ nghiêng đầu.
Diêu Ôn Ngọc nhìn về viện của Thẩm Trạch Xuyên, khẽ mỉm cười: “Ngươi đã thành toàn cho ta rồi.”
***
Cát vàng quận Biên phất quân kỳ, Thích Trúc Âm tháo mũ, miệng toàn cát. Thích Vĩ đưa khăn qua, nàng không thể cứ thế cởi giáp mà lau như đàn ông, chỉ đành chịu đựng cái nóng, kiềm chế lau mỗi má.
“Đoan châu gửi đến vài bức quân báo,” Thích Vĩ nói, “chiến địa cũng gửi.”
“Chiến địa là Lục Quảng Bạch, chỉ liên quan đến kỵ binh Biên Sa lui binh thôi.” Thích Trúc Âm sã Tru Cưu, lui ra sau tường hóng mát, “Đoan châu thì là Tiêu Trì Dã, nói đi.”
Lúc bấy giờ Thích Vĩ mới mở tin ra đọc cho Thích Trúc Âm.
Thích Trúc Âm đang lau tay bỗng khựng lại giây lát, nàng nhìn Thích Vĩ, lặp lại: “Đưa lãnh thổ của bộ Thanh Thử cho bọ cạp?”
Thích Vĩ lại tỉ mẩn đọc lại một lần nữa, sau khi chắc chắn không nhầm ở đâu mới gật đầu.
Vẻ điềm nhiên của Thích Trúc Âm dần dần lịm tắt, bộ giáp trên vai nàng cũng coi như là nhẹ, song mặc lâu vẫn đau vai. Nàng nói: “Lấy bút, hồi âm cho Tiêu Trì Dã ngay, ta không đồng ý.”
Bộ Thanh Thử là do quân phòng vệ Khải Đông đánh hạ, nơi này Thích Trúc Âm chưa dùng tới, nàng nhường cho Ly Bắc hay Trung Bác cũng được, nhưng nàng không muốn nhường cho bọ cạp. Hải Nhật Cổ chiếm đất của bộ Thanh Thử nghĩa là sao? Nghĩa là từ rày cửa của nàng sẽ có bọ cạp canh, đã thế lại còn là bọ cạp lúc nào cũng có thể quay ra phản chủ.
Thư hồi âm của Thích Trúc Âm cho Tiêu Trì Dã hoàn toàn nằm trong dự liệu, hắn khoanh tay bảo Thẩm Trạch Xuyên bên cạnh: “Địa thế của Khải Đông tạo ra ưu thế, nếu mà mở rộng về phía Đông thì sẽ làm giảm tầm quan trọng của quận Biên, hai ‘cánh cửa’ lớn Thiên Phi Khuyết và ải Tỏa Thiên cũng sẽ mất tác dụng, đại soái rất khó mà đồng ý được chuyện này.”
Thẩm Trạch Xuyên buồn ngủ rồi, nói: “Ly Bắc chấp nhận thành lập quan hệ lệ thuộc với bộ Hồi Nhan, bởi thế thiết kỵ mới được hưởng lợi từ trà thô, mở rộng lãnh thổ quận Biên về phía ngoài mang lại nhiều lợi hơn hại cho Khải Đông, về sau cũng có thể giảm nhẹ gánh nặng quân phí cho đại soái.”
Quá nửa số trà thô mà hành thương bán đi từ hỗ thị đến cảng là từ bộ Hồi Nhan mà ra, số tiền này Thẩm Trạch Xuyên biếu hết cho thiết kỵ Ly Bắc, phải biết rằng, tốc độ tiêu hao trang bị của thiết kỵ xứng danh đệ nhất thiên hạ.
Nghĩ đến đó, Thẩm Trạch Xuyên tỉnh ngủ hẳn. Y không tự trở mình được, chỉ có thể nép vào Tiêu Trì Dã thế này, nói tiếp: “Chiến tranh có thể đánh cả một đời, vậy còn đời sau thì sao?”
“Đời sau,” Tiêu Trì Dã áp phong thư lên mặt, thở dài, “đời sau sinh ra ở Ly Bắc vẫn là tốt nhất.”
Hai người nằm, Đinh Đào và Lịch Hùng dưới hành lang dẫn Ký Nhiên theo chơi đập quả óc chó, mấy đứa nhỏ cười đùa khanh khách. Nắng chiếu lung linh côn trùng rả rích, âm này nối âm kia.
“A Mộc Nhĩ dùng cả đời cũng không thống nhất được mười hai bộ,” thật lâu sau, Tiêu Trì Dã nói, “cha nghĩ lão ta có thể trở thành đại quân.”
“Ngươi không hiểu lý do A Mộc Nhĩ không trở thành đại quân của đại mạc rồi,” Thẩm Trạch Xuyên nghiêng đầu, “ta có thể bật mí cho ngươi.”
Tiêu Trì Dã bỏ lá thư xuống, nghiêng người, nóng quá đâm lười nên chỉ nói: “Ừ?”
“Tại vì Ly Bắc có Tiêu Sách An đấy.” Thẩm Trạch Xuyên ngước lên nhìn hắn, “Ngươi muốn vượt sông Đông tiến, đi tìm A Mộc Nhĩ.”
Tiêu Trì Dã bỗng che mắt Thẩm Trạch Xuyên lại, trời nóng phát ngốt, hắn xích lại gần, thấp giọng rủ rỉ: “Vợ hiểu ta quá đi.”
Khóe môi Thẩm Trạch Xuyên khẽ cong lên, có chút đắc ý cỏn con.
Tiêu Trì Dã thích nhìn Thẩm Trạch Xuyên như thế, cụp mắt, không kìm được mà hôn y.
===
[1] Nguyên văn từ Thẩm Nghĩa Phủ.
[2] Trích《 Kinh Kim Cương 》.
Doujinshi chương này.