Thương Tiến Tửu

Chương 269: Bệnh biến




Lệnh cấm triều đình ban xuống cũng không trấn át được những lời bàn ra nói vào vô thưởng vô phạt xôn xao khắp Khuất đô, trên đường trên phố, lầu xanh tiệm trà, tất cả mọi người đều đang bàn luận về thân thế của nữ đế. Cổng thành đã bị phong tỏa, thế nhưng tin đồn vẫn lan ra tám thành, dồn dập kéo đến Quyết Tây.
“Nhanh chóng cắt đô quân phong cổng,” giữa buổi nghị sự ở Minh Lý đường, Khổng Tưu nói, “không thể để tin tức lan truyền bậy bạ được! Thái học bạo loạn mất thể thống, đô quân cũng phải đi dẹp. Thành Bích là lão thần, biết đúng mực.”
Thiệu Thành Bích quỳ trước ngự án, quan bào mới của ông vừa khít người, chỉ là đầu đã bạc phơ, nhìn chẳng giống võ tướng. Giọng ông khản đặc, nói: “Đây không phải lần đầu tiên học sinh gây rối, nếu không đánh giá đúng mức độ nghiêm trọng của tình hình, chỉ sợ kéo quân đến lại thành đổ dầu vào lửa.”
“Kể cả thế cũng phải dẹp,” Sầm Dũ đứng dậy, ông là ngôn quan, đương nhiên sẽ rõ lợi hại thiệt hơn, “miệng quần chúng nung chảy vàng, lưỡi thiên hạ xói mòn xương!”
Đêm qua Lý Kiếm Đình không ngủ, ngồi sau ngự án uống trà đặc, nhấp mấy hớp rồi nói: “Trẫm không thẹn với lương tâm, song lần này tin đồn nổ ra quá kỳ quặc, tờ giấy đó rốt cuộc là ai viết, đến bây giờ bộ Hình cũng vẫn chưa có manh mối nào ư?”
“Toàn bản sao chép,” Khổng Tưu nói, “chẳng biết chữ của ai nữa.”
“Chữ viết không tra được rồi,” Tiết Tu Trác nhìn Sầm Dũ, “nhưng Sầm đại nhân xem kỹ bài văn này mà xem.”
Đêm qua trông thấy tờ giấy này, lục phủ ngũ tạng của Sầm Dũ đã lộn phèo mê tơi như bị đốt, đâu ra thời giờ mà xem kỹ, giờ thấy Tiết Tu Trác nói thế mới bèn nhận lại đọc. Ông đọc một lát, bỗng đứng dậy, cầm giấy đi mấy bước, nói: “Bài văn nổi tiếng ở Khuất đô mấy năm trước là ‘Trà Thạch vị thán’, ta thấy bài này với ‘Trà Thạch vị thán’ hình như cùng một tác giả.”
Khổng Tưu nhớ mang máng người này, ngập ngừng: “Có phải là…”
“‘Bút sắc’ Cao Thần Uy,” Sầm Dũ quay lại, “là Cao Trọng Hùng!”
Cao Trọng Hùng nói như pháo rang mà làm thì như mèo mửa, hồi ở Khuất đô làm phụ tá cho Hàn Cận, kết quả hại tám đại doanh bị Tiêu Trì Dã đánh một trận xiểng liểng. Lúc đó Hàn Thừa muốn xử hắn, hắn đến thành Đan sống cù bơ cù bất, ai mà ngờ được cuối cùng lại đi nương nhờ Thẩm Trạch Xuyên!
“Tình hình cấp bách, không những phải trấn át tin đồn mà còn phải khẩn trương thuyết phục đại soái xuất binh.” Khổng Tưu nói, “Thẩm Trạch Xuyên nắm trong tay mười hai vạn quân phòng vệ Trung Bác, về binh lực thì dù thế nào chúng ta cũng không thể đánh liều được.”
“Trẫm đã phát chiếu cho Khải Đông rồi,” Lý Kiếm Đình nói, “yêu cầu Đông Liệt vương xuất binh vượt Thiên Phi Khuyết, đánh thẳng Đăng châu.”
Trung Bác không có viện binh, Thẩm Trạch Xuyên điều quân phòng vệ Đôn châu đến Từ châu, Cẩm y kỵ thì để lại ở Đoan châu, hai châu Phàn, Đăng đang đang không có ai phòng thủ.
“Không cần cuống vội,” Trần Trân nói, “quân phòng vệ Trung Bác mới thành lập thôi, hiện giờ Thẩm Trạch Xuyên chỉ có thể dùng được quân phòng vệ Từ châu với Đôn châu, đến cả quân phòng vệ Trà châu y còn không dám tùy tiện điều động nữa là. Thành Bích, bốn vạn đô quân đều nghe ông điều khiển, chúng ta với Thẩm Trạch Xuyên trên thực tế là ngang sức!”
“Trẫm lo Thẩm Trạch Xuyên còn hậu chiêu,” Lý Kiếm Đình đứng dậy tới đỡ Thiệu Thành Bích, “giờ trẫm chỉ có thể phó thác Khuất đô cho Thiệu tổng đốc thôi.”
“Lão thần cam nguyện nát thịt tan xương để báo đáp thánh ân,” Thiệu Thành Bích đi tập tễnh, “không nên trì hoãn nữa, đêm nay lão thần sẽ lập tức giục ngựa rời đô đến thành Đan, nhưng trước khi đi, lão thần có một việc muốn thỉnh cầu.”
Lý Kiếm Đình nhìn gương mặt già cỗi của Thiệu Thành Bích, chẳng biết cớ sao mà sóng lòng bỗng dập dềnh từng cơn, nàng đỡ Thiệu Thành Bích, nhất thời xúc động: “Trận chiến này lắm nguy nan, dù thắng hay thua, chỉ cần trẫm vẫn còn, nhất định sẽ rửa sạch oan khuất cho Tổng đốc.”
“Lão thần già rồi mà vẫn còn có thể dốc sức vì giang sơn, đó đã là được thánh thượng sủng quyến, những cái khác, làm được thì được, mà không được thì thôi.” Vẻ mặt Thiệu Thành Bích trang nghiêm, “Lão thần thỉnh cầu mở kho quân bị doanh Xuân Tuyền.”
Lý Kiếm Đình hơi run lên.
Thiệu Thành Bích nói: “Doanh Xuân Tuyền được trang bị hỏa đồng, lão thần muốn mang chỗ hỏa đồng này đi.”
“Trẫm phê chuẩn,” Lý Kiếm Đình lập tức quay lại bảo Phong Tuyền lấy rượu, đích thân rót một chén cho Thiệu Thành Bích, nói, “trẫm ở Khuất đô, chờ Tổng đốc khải hoàn!”
***
Cao Trọng Hùng gác bút, bảo Diêu Ôn Ngọc: “Theo Nguyên Trác, Khuất đô định đánh trận này thế nào?”
“Trước tiên phải trấn át tin đồn, sau đó thuyết phục đại soái xuất binh.” Diêu Ôn Ngọc chuyển xe lăn sang đầu bên kia bàn, trải mở bản đồ, “Thiệu Thành Bích trấn thủ thành Đan, Tiết Tu Trác đương nhiên sẽ nhắm vào thân thế của phủ quân mà công kích, hắn cũng cần một cái cớ chính đáng để xuất quân.”
“Đúng là hai châu Phàn, Đăng vẫn có bốn vạn quân phòng vệ trú đóng, nhưng tất cả đều là lính mới, chỉ có thể chờ Hoắc Lăng Vân đến tiếp viện thôi.” Chu Quế hơi ảo não, lại hơi cảm khái: “Tiết Tu Trác trả ruộng về tay dân, cực kỳ có thanh thế ở thành Đan, nếu triều đình mà lôi Thẩm Vệ ra thì chúng ta cũng khó mà đáp trả.”
Khổng Lĩnh: “Bọn họ ban ơn ba thành, chúng ta phát huệ sáu châu, công lao lưu truyền ba vùng của phủ quân là thực, tuyệt đối không phải thứ tân đế có thể bì được. Phòng tuyến sông Trà Thạch cũng là chúng ta liên minh với Ly Bắc và Khải Đông đánh hạ, Nhị gia lại còn lập được chiến công hiển hách bình định quận Biên, Đông tiến đại mạc. Bàn về công trạng thì Trung Bác Ly Bắc là vô địch.”
Thẩm Trạch Xuyên ngồi một mình trên ghế, dường như đang suy tư điều gì.
“Vẫn còn một chuyện mà ta nghĩ mãi không ra, ruộng dân của ba thành nhìn chung đã ổn định rồi,” Chu Quế chỉ vào Khuất đô, “thế nhưng dân lưu lạc đến Trung Bác năm nay vẫn tăng chứ không hề giảm, lý do vì sao?”
“Thế gia đã cai quản tám thành bao nhiêu đời nay, cái gọi là chiếm đoạt ruộng dân ấy, chẳng phải chỉ đơn giản là tám đại gia tộc. Năm đó thái phó đẩy mạnh chế độ hoàng sách chính là để nhằm kiểm soát hiện tượng chiếm đoạt điền sản. Ba thành Đan, Vu, Thuyên quả thực đã gỡ được thuế ruộng, thế nhưng khoản thuế này cũng là do ba nhà Phan, Hàn, Phí mạnh tay ép thu bên dưới để bù vào, nói cách khác, còn rất nhiều ‘lưu phỉ’ không xuất thân từ thế gia mà lại phụ thuộc vào thế gia ngấm ngầm nuốt ruộng dân, chúng tiếp tục đùn những khoản thất thoát này lên đầu dân chúng.” Diêu Ôn Ngọc nhìn Thẩm Trạch Xuyên, “Thế gia đã gọi là ‘căn bệnh trầm kha’ thì không thể nào có chuyện dễ bề trừ tận gốc.”
“Nguyên Trác nói đúng,” Thẩm Trạch Xuyên mở nắp chén trà, lại đậy lại, “phổ biến hoàng sách không khó, cái khó nằm ở những công việc tích lũy qua nhiều năm, cần phải chỉnh đốn lại chính vụ từ bên trong, giám sát kê khai báo cáo, tuyển lựa bổ nhiệm quan lại từng vùng cũng cực kỳ trọng yếu. Những năm gần đây Khuất đô chìm đắm trong bè đảng tranh đấu, cả hàn môn và thế gia đều chịu tổn thất. Lúc tân đế lên ngôi chính là thời điểm triều đình trống rỗng, những vị trí then chốt bỏ trống. Dẫu Tiết Tu Trác có nỗ lực cứu rỗi tình hình thì cũng là một cột khôn chống vững nhà.”
Khổng Lĩnh nói: “Đến cả tiền lương Khuất đô còn đang không phát nổi, đã vậy còn phải gồng gánh chi phí của bốn vạn đô quân, càng để lâu bọn họ càng túng thiếu. Bách tính không thể tăng gia sản xuất, bạc trong tay Tiết Tu Trác không thể cầm cự nổi quá mùa đông năm nay.”
“Đã đến lúc này rồi,” Thẩm Trạch Xuyên nói, “đánh là đánh bút mực, chờ xem Khuất đô đáp trả thế nào thôi.”
Rèm nhẹ nhàng vén lên, Phí Thịnh cầm thư vào trong, nói: “Chủ tử, Nhị gia gửi thư.”
Khổng Lĩnh thấy trời đã tối om, bèn kéo Chu Quế với Cao Trọng Hùng đứng dậy, bảo Thẩm Trạch Xuyên: “Hôm nay muộn quá rồi, phủ quân cũng nên đi nghỉ đi, chúng ta cáo lui trước đây.”
Thẩm Trạch Xuyên chờ mọi người kéo nhau lui hết mới mở thư của Tiêu Trì Dã, vừa mở ra, bên trong đã rơi xuống mấy con sói nhỏ gấp bằng giấy.
Vợ ta thấy thư như thấy người.
Viễn chinh vô hiểm, thiết kỵ đã đến Mạc Tam Xuyên rồi, tháng Mười Một là sẽ đến được quê hương của A Mộc Nhĩ. Nhờ có bộ Hồi Nhan, ta đã dùng lợi nhuận từ hỗ thị để lôi kéo ba bộ ở Mạc, muốn dốc kiệt lực ba bộ để cùng chinh phạt kền kền. Lương thưởng đầy đủ, khoai lang chắc bụng, mỗi tội Lục Quảng Bạch cằn nhằn điếc tai quá. Nếu đánh thắng trận này là có thể chạy về nhà đón Tết cùng ngươi. Nhớ ngươi.
Thẩm Trạch Xuyên thấy ở dưới cùng, Tiêu Trì Dã dùng muội than vẽ một tấm bản đồ sao đen nhẻm. Thẩm Trạch Xuyên đọc đi đọc lại mấy dòng ngắn ngủi lâu thật lâu, ánh nến soi hoa bên cửa sổ, đêm Từ châu cũng tạm coi là mát mẻ, nhưng bờ Đông sông Trà Thạch thì đã sang thu rồi. Mạc Tam Xuyên là vùng đất cằn cỗi hoang sơ, khô cằn gió cát, chẳng biết lúc trở về Tiêu Trì Dã có gầy đi hay chăng.
Ngàn vạn lời Thẩm Trạch Xuyên muốn tỏ, tất cả đều hóa thành hai chữ “nhớ ngươi.”
Sau lá thư nhà của Tiêu Trì Dã còn có một bức thư công mang soái ấn, Thẩm Trạch Xuyên mở ra, phát hiện là thư của Lục Quảng Bạch.
***
Mấy hôm sau vó ngựa đạp vỡ bầu tĩnh mịch, đêm rét căm căm hãy còn say giấc, người ghìm cương rút yêu bài của mình ra, gọi tay lính canh trại: “Hỏa bài hỏa tốc, mau mở cổng, ta muốn gặp Đông Liệt vương!”
Lúc khoác áo Thích Trúc Âm đã có dự cảm, nàng vén rèm đi ra, cả mình một sắc xanh dương, thấy phù nghiệm hỏa tốc. Nàng hỏi: “Quân báo à?”
“Quân báo!” viên quan hỏa tốc xuống ngựa, quỳ xuống hành lễ, cao giọng, “bộ Binh đặc phê, yêu cầu Đông Liệt vương Thích Trúc Âm lập tức xuất binh Đăng châu, chinh phạt loạn đảng Trung Bác!”
Thích Trúc Âm khẽ mím môi, không đáp ngay.
Viên quan hỏa tốc ngay lập tức đứng dậy, giơ lên hỏa bài, nói: “Thánh mệnh đặc ban, Hoàng thượng khâm điểm Đông Liệt vương xuất binh!”
“Bốn vạn đô quân đang ở thành Đan,” Thích Trúc Âm nói, “sao Thiệu Thành Bích không đi? Thiên Phi Khuyết là thành lũy hiểm yếu của Đại Chu, binh của ta vượt một lần là phải tốn mấy vạn quân lương lận đấy.”
“Nội các đã phê duyệt cho bộ Binh rồi, quân lương Khải Đông sẽ đến trong vòng vài ngày nữa.” Viên quan có một gương mặt dài, nguyên là thuộc hạ cũ của Thiệu Thành Bích, đặc biệt đến để yêu cầu Thích Trúc Âm xuất binh. Hắn biết chừng mực, nói tiếp: “Dã tâm của nghịch thần loạn đảng đã hiển hiện, Tổng đốc đóng quân ở thành Đan là để bảo vệ Khuất đô. Hiện giờ tặc tử Thẩm thị đang tập trung quân lực ở Từ châu, phần lưng sơ hở, chỉ cần Đông Liệt vương xuất binh là có thể hợp lực với Tổng đốc giáp công trước sau, vây diệt loạn đảng.”
Thích Trúc Âm không tiếp.
Viên quan lại gần thêm một bước, hông hắn đeo đai lưng vàng ngự ban, còn mang cả danh đao ngự ban. Thích Vĩ tức khắc bước ra chắn trước người Thích Trúc Âm, quát: “Gặp vương tháo đao!”
“Đao của ta là thiên tử ban thưởng.” Viên quan chẳng mảy may chùn bước, lạnh lùng nói, “Loạn đảng đe dọa Khuất đô, đã kéo đến trước ngự giá rồi, cớ sao Đông Liệt vương còn chưa chịu xuất binh cần vương?” hắn bỗng giật đai lưng vàng xuống, “Thích thị vâng mệnh điều động của thiên tử, chính là thần tử của Đại Chu. Thích Trúc Âm, vì sao không tiếp chỉ?!”
Thích Vĩ đã cáu máu lên: “Tôn húy của vương ta, ngươi há có thể gọi thẳng!”
Viên quan hiên ngang không hề kiêng nể: “Giang sơn xã tắc lâm nguy! Đông Liệt vương không xuất binh, Đại Chu khắc mất, đến lúc đó vương chẳng phải vương, thần chẳng phải thần, ngươi ta sẽ chỉ còn là nô lệ vong quốc, nào còn tôn ti trật tự gì nữa!”
Thích Vĩ nổi xung: “Bắt——”
“Lui xuống!” Thích Trúc Âm bỗng giơ tay, áo choàng phủ trên vai nàng rơi xuống đất, để lộ thường phục cùng Tru Cưu gài bên hông ở trong. Nàng nói: “Để lệnh bài lại, bổn vương đã rõ.”
Viên quan lôi ra hỏa bài trong bầu không khí giương cung bạt kiếm, trình hai tay đến tay Thích Trúc Âm, lại hành lễ lần nữa, trầm giọng: “Hạ quan ở thành Đan chờ Đông Liệt vương đại thắng.”
Dứt lời xoay người lên ngựa, thậm chí còn chẳng uống một hớp nước đã phi ngựa quay về thẳng.
“Đúng là tên láo toét!” Thích Vĩ còn đuổi theo hai bước, ngoái lại bảo Thích Trúc Âm, “đại soái tội gì phải nhịn, bây giờ Khuất đô đang phải van xin chúng ta ra quân cơ mà!”
“Đó là một viên quan tốt, gặp nguy không cuống, gặp biến không sợ, ngươi cần phải học hỏi.” Thích Trúc Âm nhìn hỏa bài, “Hôm nay hoãn chăn ngựa luyện binh, cơm sắp về rồi.”
“Thế chúng ta đi thật ư?” Thích Vĩ theo gót Thích Trúc Âm, “Nhị gia đang viễn chinh mà, bây giờ mà đánh Trung Bác thì chúng ta thành thừa nước đục thả câu à.”
“Đánh giặc mà là thừa nước đục thả câu à?” Thích Trúc Âm xoay người vào lều, thả hỏa bài lên bàn, nhìn lên tấm bản đồ treo trên tường, “hiện giờ Thẩm Trạch Xuyên đang thiếu tướng, chỉ có mỗi Hoắc Lăng Vân có thể tạm thời thế chỗ Chỉ huy sứ Đăng châu, nhưng binh dưới quyền lại không phải binh tốt. Chúng ta đánh Đăng châu chỉ cần hai vạn binh là đủ.”
Thích Vĩ: “Chỉ sợ…”
“Đàm Đài Hổ không thể phân thân,” Thích Trúc Âm nói tiếp, “Thẩm Trạch Xuyên bị trọng thương chưa khỏi, ta vừa động là Ký Minh sẽ tới ngay thôi.”
Thích Vĩ bị Thích Trúc Âm ngắt lời, quên phéng luôn mình tính nói gì, mà lại sửng sốt: “Thế tử —— vương gia định trở lại chiến trường ư?”
“Tiêu Trì Dã dám để thịt đầu con tim của mình ở lại,” Thích Trúc Âm liếc Thích Vĩ, “nếu không có hậu thuẫn thì đời nào hắn dám đi?”
“Ly Bắc chỉ còn có ba vạn thiết kỵ,” Thích Vĩ lại đâm lo ngược cho Tiêu Ký Minh, “vương gia hẵng còn đang dưỡng thương mà, nhỡ có chuyện gì bất trắc thì vương phi có mà khóc lụt Khải Đông luôn à?”
Thích Vĩ đã nghĩ đến cảnh Lục Diệc Chi nhắm mắt gào khóc đấm Thích Trúc Âm thùm thụp rồi.
“Thiết mã sông băng Tiêu Ký Minh,” Thích Trúc Âm nói, “hắn chính là Tiêu Ký Minh có thể đội tuyết thần tốc, vượt sông xuôi Nam đánh úp kỵ binh Biên Sa. Đừng bảo là bây giờ Ly Bắc còn ba vạn thiết kỵ, có còn năm ngàn thiết kỵ hắn cũng dám tới.”
Thích Vĩ rụng cả hồn, đánh nhau với kỵ binh Biên Sa thì hắn cóc xoắn, nhưng với Ly Bắc thì… Hắn nói: “Đại soái à, nếu mà động tay động chân thật thì thảm cả hai bên đấy. Khoan bàn đến chuyện tướng sĩ chết vội, dân chúng hai vùng cũng sẽ phải sống trong sợ hãi. Ruộng đất Đăng châu năm nay đã chỉnh đốn rất đâu vào đấy rồi, chúng ta mà quét qua, năm sau dân đến chết đói thôi. Chẳng phải đô quan lợi hại lắm sao? Để bọn họ dùng miệng lưỡi thuyết phục Thẩm Trạch Xuyên đi, tôi trông ý của Thẩm Trạch Xuyên ấy, là đô quân không động thì y cũng sẽ không động.”
“Thế thì ngươi phải tính đến một chuyện,” Thích Trúc Âm quay lại, nghiêm nghị nói, “không đánh trận này, ngươi và ta sẽ chính là nô lệ vong quốc, mai sau sẽ chính là bề tôi tiền triều, từ đây thiên hạ đổi họ, không phải quỳ trước Thẩm Trạch Xuyên, mà chính là quỳ trước Tiêu Trì Dã.”
Thích Vĩ lặng thinh.
“Xưa nay trung nghĩa khó song toàn,” Thích Trúc Âm lại nhìn bản đồ, “chính là lúc này đây.”
Bỗng có tiếng bước chân vọng tới từ bên ngoài, Thích Vĩ ngoảnh lại ngó.
“Nghe nói quan viên hỏa tốc đến.” Hoa Hương Y vén rèm vào, nàng bận đồ trắng thuần, càng tôn lên dung mạo sáng sủa, “A Âm, là quân báo à?”
***
Trước khi Thiệu Thành Bích rời Khuất đô, Lý Kiếm Đình sai Phong Tuyền thu xếp hành lý cho ông. Thực ra Thiệu Thành Bích chẳng có gì để chuẩn bị cả, ông chỉ mang theo mỗi thanh đao.
Phong Tuyền gội đầu cho Thiệu Thành Bích, rồi búi tóc cho Thiệu Thành Bích ở trước gương. Mái tóc trắng của Thiệu Thành Bích rất xơ, ông nói: “Ra trận giết giặc, không thể nuôi dài, cắt bớt đi.”
Phong Tuyền bèn bảo tên tiểu thái giám mang dao tới, cắt tóc cho Thiệu Thành Bích.
“Hoàng thượng để con đến tiễn,” tiếng Thiệu Thành Bích bị khàn vì dùng thuốc, không hỏng đến nỗi không nói được, song giọng nói đã biến dạng hoàn toàn, “là thiên ân.”
Tiếng dao lia cắt nhẹ nhàng, Phong Tuyền đáp hững hờ: “Cha nói đúng.”
“Lần này đi chẳng biết từ biệt đến ngày nao,” Thiệu Thành Bích nhìn Phong Tuyền trong gương, “cha con ta sẽ không gặp nhau nữa.”
“Cha dùng binh trầm ổn, sẽ không thua được đâu,” Phong Tuyền tỉ mẩn cắt, “vả chăng tất cả hỏa đồng của doanh Xuân Tuyền đều đang nằm trong tay cha mà, đủ cho Thẩm Trạch Xuyên ăn một vố.”
“Y kế thừa thái phó,” Thiệu Thành Bích nói, “là một kiêu hùng.”
“Tuy thái phó có thể bày mưu lập kế, chiến thắng vô hình,” từng lọn tóc trắng rơi lã chã xuống đất, Phong Tuyền lấy ngón cái lau lưỡi dao, cổ Thiệu Thành Bích kề gang tấc, “nhưng người mắc bệnh thông minh đều có một cái tật, đó chính là tự phụ.”
Con mắt mù của Thiệu Thành Bích khó nhọc chớp.
Phong Tuyền cất dao, mau mắn búi tóc lên, gài chắc cho Thiệu Thành Bích.
Thiệu Thành Bích ngồi yên, ánh tà dương xuyên thấu qua cửa sổ, vạch nên đường phân cách giữa ông ta và Phong Tuyền. Bụi bay phiêu diêu, Thiệu Thành Bích nói: “Kiếp sau, ta làm con trai con.”
Phong Tuyền lặng thinh một hồi lâu, đáp: “Tha cho ta đi.”
***
Khuất đô mất nửa tháng để thảo hịch văn, nha môn các nơi đem hịch văn dán lên, bên trên ngoài Thẩm Vệ binh bại còn có đủ thứ tội trạng nào nuôi binh tự lập nào tụ đảng mưu nghịch của Thẩm Trạch Xuyên.
“Triều đình thi ân cho Thẩm thị, thế mà dư nghiệt Thẩm thị lại chiếm núi làm vua, toan tính mưu phản!” tiểu lại nha môn vừa gõ chiêng vừa hô hào cho những người dân không biết chữ, “nay y tụ tập thổ phỉ kéo tới thành Đan, là loạn thần, là nghịch tặc! Bắt đầu từ hôm nay đô quân sẽ tuần tra thành, thi hành lệnh giới nghiêm. Sau giờ Dậu, các nhà các hộ không được ra ngoài!”
Đô quân được trang bị quân trang chất lượng nhất, không quản ngày đêm bôn ba trên khắp nẻo đường phố xá. Những quán trà tửu lầu nơi tin đồn sống động xôn xao nhất đều đóng, chỉ cần tụ tập đông người là chắc chắn sẽ bị truy lùng hạ ngục với tội danh phỉ báng. Trong chớp mắt, lòng người hoang mang, con phố Đông Long phồn hoa sầm uất bậc nhất cũng vắng tiếng sáo trúc kèn sênh.
“Nữ đế đăng cơ, vừa không có ngọc điệp, cũng vừa không có chu phê,” Cao Trọng Hùng giẫm lên tảng đá, phất cao tờ giấy, nắng như đổ lửa, mặt hắn bóng nhẫy mồ hôi, “chỉ dựa vào mỗi lời nói của Tiết Tu Trác, khó lòng tin tưởng! Nếu nàng thật sự là huyết mạch của Tần vương, vậy thử hỏi ấn chu sa đâu? Dòng dõi Tần vương đã tàn lụi, nếu có đích nữ, sao lại để nàng lưu lạc ở dân gian?”
“Tự Thái tổ lên ngôi đến nay, Đại Chu đã trải qua hai mươi mốt đời quân vương, trong mấy trăm năm chưa từng có một vị hoàng đế bất thanh bất bạch thế này! Ngày hôm nay đến tột cùng chư vị quỳ trước quân vương Lý thị, hay là quyền thần Tiết thị!” Cao Trọng Hùng lau mồ hôi, giọng trầm như bễ, “Vĩnh Nghi loạn chính, Hàm Đức binh bại, Lý thị bị thế gia thâu tóm, sớm đã chẳng thể thi ân, thân mình chẳng thể bảo vệ!”
***
Đại viện ban sai dồn dập tiếng bước chân, đèn đuốc trong Minh Lý đường cháy xuyên đêm.
“Hỏa tốc báo tin, Đông Liệt vương sẽ xuất binh,” điều động binh mã chẳng phải chuyện nhỏ, Trần Trân đã chờ đợi liền bốn ngày, ăn ngủ đều ở trong đại viện, “nhưng chưa có quân báo, rốt cuộc là lúc nào xuất phát, lúc nào đến nơi, chúng ta cũng chịu.”
“Đang gom lương thực, không thể chờ nữa, không trì hoãn được nữa. Phát hỏa bài, phát lại cho nàng đi, Thích Trúc Âm vẫn không động đậy thì phát thẳng cho Thích Thời Vũ!” Khổng Tưu ngồi trên ghế mà như ngồi trên đống lửa, “nếu có thể tốc chiến tốc thắng Đăng châu, thao trường Bắc Nguyên chắc chắn sẽ rút quân về chi viện, Thiệu Thành Bích có thể xuất binh truy kích. Nhưng triều đình có những mười mấy cán bút mà vẫn để Cao Trọng Hùng vượt mặt à, chẳng nhẽ viện hàn lâm Thái học không có ai ư?!”
Nguyên phụ đã nổi giận, nội đường phút chốc lặng thinh, tất cả viên quan đứng cung kính dưới hiên đều câm như hến.
Vốn thân phận của Lý Kiếm Đình đã vướng sẵn hoài nghi, hồi đó bảo là con gái của Tần vương, nhưng con gái của Tần vương thì dầu gì cũng phải có ngọc điệp, phải có di chỉ hay ấn chu sa của Tần vương chứ. Lúc chứng minh thân phận của trữ quân, thứ Tiết Tu Trác đưa ra là bút tích của Thiên Sâm đế Lý Kiến Hằng, trên thủ bút gấm vàng có đóng dấu ấn ngọc, nhưng lúc đó Lý Kiếm Hằng chết rồi, chẳng ai trong các lão thần nội các rõ tình hình.
Bây giờ Trung Bác khăng khăng Lý Kiếm Đình không phải dòng dõi Lý thị, tuy nghiêm cấm các nơi bàn luận quốc sự, song lời đã đồn đã nổ ra thì sẽ quanh quẩn rất lâu, thậm chí còn có người đoán già đoán non về nữ đế và Tiết Tu Trác.
“Trận này khó đánh,” Sầm Dũ nói, “vẫn phải lại đi giục Đông Liệt vương thôi.”
***
Thiệu Thành Bích bước cà nhắc lên tường thành, đứng từ đây không thấy được Từ châu, chỉ trông thấy hàng lều trại trải dài miên man của quân phòng vệ Đôn châu. Đàm Đài Hổ tuân thủ nghiêm lệnh của Thẩm Trạch Xuyên, song phương đấu đá càng gay gắt, càng tiếp cận gần thành Đan.
“Đàm Đài Hổ vốn là tướng của Tiêu Trì Dã, sau đó được Tiêu Trì Dã điều đến Trung Bác, bắt đầu trấn giữ Đôn châu. Thẩm Trạch Xuyên có thể phòng thủ được Đoan châu là nhờ có một phần công lao của Đàm Đài Hổ.” Viên quan đi bên cạnh Thiệu Thành Bích chính là viên quan đến Khải Đông chuyển hỏa bài hôm ấy, hắn là con trai của thuộc hạ cũ của Thiệu Thành Bích, tên là Hứa Dũ, sau khi Thiệu thị bị tịch biên thì cũng bị xóa luôn quân hàm, trở thành một chân chạy việc ở trạm dịch, thuộc làu tướng lĩnh các vùng như lòng bàn tay.
Thiệu Thành Bích lết cái chân què đến gần tường, nói: “Tên này có quan hệ thế nào với Đàm Đài Long?”
“Là em trai của Đàm Đài Long.”
“Đàm Đài Long điềm đạm trầm ổn, nếu hắn thừa hưởng được tính cách của anh hắn,” Thiệu Thành Bích nhìn biển trời bao la, ráng vàng bao phủ, “e là sẽ khó đối phó.”
“Thứ Thẩm Trạch Xuyên dùng để thu phục sáu châu là lá bài nhân nghĩa,” Hứa Dũ nói, “bây giờ lại lấy ‘Lý thị bất nhân’, ‘phủ quân chính nghĩa’ làm cờ xí, đương nhiên sẽ không dám để Đàm Đài Hổ công thành, tránh bị người ta đàm tiếu. Nhưng hạ quan thấy quân phòng vệ Đôn châu có vẻ muốn bao vây cổng thành, từ từ tiêu hao lương thực của thành Đan để ép Tổng đốc mở cổng đấy.”
“Quốc khố trống rỗng, lương thực túng thiếu, vây thành ép hàng đúng là diệu kế.” Thiệu Thành Bích bước qua bước lại trên tường thành, “Đàm Đài Hổ trị quân thế nào?”
Hứa Dũ gióng mắt về ngoài thành, đăm chiêu một hồi, đáp: “Lỏng lẻo vô độ.”
***
Đàm Đài Hổ đang ăn cơm trong doanh, từ lúc hắn đến thao trường Bắc Nguyên đến giờ, Dư Tiểu Tái đã ăn chung ở chung với hắn. Sắc trời đã đen như mực, Đàm Đài Hổ hỏi: “Tuần đêm có gì bất thường không?”
Liễu Không đứng ở cửa lều, thưa: “Không có gì bất thường. Tướng quân, lão Thiệu Thành Bích đó hay uy danh của tướng quân, sợ đến độ không dám thò mặt ra khỏi cổng thành nữa luôn.”
“Nghe bảo Thiệu Thành Bích bị què,” Đàm Đài Hổ và mấy và sạch bong cơm, “chẳng biết có dám lên ngựa đánh nhau với chúng ta không đây.”
“Bọn họ định thủ thành,” có mặt Dư Tiểu Tái, Liễu Không thận trọng hơn hẳn, “nếu phủ quân có lệnh thì ta sẽ lập tức báo cho tướng quân, tướng quân đi nghỉ đi.”
Trong trại lắm muỗi, bèn hạ rèm xuống. Dư Tiểu Tái đang ngâm chân nước nóng, đè giọng hỏi Đàm Đài Hổ: “Ta coi tên này có vẻ thông minh nhanh trí phết, sao lúc tuần sát lần trước chưa gặp nhỉ?”
“Lúc đó ta còn chưa đề bạt gã lên,” Đàm Đài Hổ nói, “tên này số lận đận lắm, nhà là nông dân ở Đăng châu. Năm Hàm Đức thứ tư bị kỵ binh Biên Sa giết sạch, đi theo thổ phỉ Phàn châu lăn lộn kiếm sống qua ngày, về sau mới gia nhập quân của ta, cũng coi như đã cải tổ hoàn lương.”
Dư Tiểu Tái để ý, vừa lau chân vừa suy nghĩ.
Tối đến bọn họ chia giường ngủ, Đàm Đài Hổ ngáy vang như sấm, nào ngờ đến giờ Sửu, bụng bắt đầu nhộn nhạo. Đàm Đài Hổ nghĩ là thức ăn không sạch, đau đến nỗi mặt mày trắng bợt, nhịn đến tận quá nửa đêm thì bắt đầu thấy sai sai.
Liễu Không bên ngoài lều hớt hải kêu: “Tướng quân! Các anh em bị đau bụng!”
Đàm Đài Hổ ôm bụng, lê giày vén rèm lên, nghe thấy một bầu rên rỉ khắp doanh trại, người chen đông nghẹt ngoài nhà xí. Mặt hắn thoáng tối sầm, nói: “Gọi quân y đi đã, rồi lập tức cử người đến Từ châu báo cáo!”
Dư Tiểu Tái ngủ say như chết, nghe thấy tiếng động cũng lồm cồm bò dậy, vừa khoác áo vừa ra ngoài, bàng hoàng: “Thế này là thế nào?!”
“Có người hạ độc——”
Liễu Không còn chưa nói hết, hai bên đã vang lên những tràng ói mửa òng ọc, toàn bộ binh lính bắt đầu nôn thốc tháo, triệu chứng thế này không phải hạ độc thì còn là cái gì nữa? Lòng Đàm Đài Hổ thầm kinh hoàng, biết ngay trong quân có gián điệp.
“Mau truyền quân y!” Đàm Đài Hổ gấp giọng.
***
Hứa Dũ đã ngủ, được trinh sát báo tin, còn chưa buồn rửa mặt đã đi gọi Thiệu Thành Bích. Hắn dẫn Thiệu Thành Bích lên cổng thành, nói: “Tổng đốc, quân phòng vệ loạn rồi!”
Thiệu Thành Bích trông về doanh trại sáng trưng ở xa xa, nghe thấy tiếng người.
Hứa Dũ mừng húm: “Trinh sát hồi báo, chẳng biết quân phòng vệ ăn phải cái gì mà tất cả binh lính đều đang đau bụng, nôn mửa tiêu chảy, hiện giờ Đàm Đài Hổ đang hốt hoảng như con kiến trên chảo lửa đây.”
Thiệu Thành Bích cẩn trọng hỏi: “Có thật không? Nếu là kế nhử binh thì sợ còn có mai phục đấy.”
“Đàm Đài Hổ cũng bị đau bụng, người trong doanh ngã một loạt, có vẻ không phải là giả đâu. Chưa kể Trung Bác đang thiếu viện trợ, không đời nào có chuyện hắn lại lấy hai vạn quân phòng vệ ra diễn kịch được.” Hứa Dũ đỡ đao, hiếm khi thấy sóng lòng xốn xang, “Tổng đốc, thắng trận này, đến ngày khải hoàn, oan khuất của chúng ta sẽ được gột rửa!”
Thiệu Thành Bích thở hơi trầm, ông vịn gò tường, hẵng còn lưỡng lự. Tiểu binh bên dưới rảo bước lên trên, ôm quyền với Thiệu Thành Bích: “Tổng đốc, hỏa bài từ hỏa tốc —— Đông Liệt vương xuất quân rồi!”
Thiệu Thành Bích híp một con mắt, ngửa mặt phá ra cười trong ánh lửa, quay phắt lại nói: “Ông trời giúp ta rồi, dắt ngựa tới!”
***
Đàm Đài Hổ cũng bị tiêu chảy, cả chân lẫn bụng đều run lập cập. Quân y không đủ, trong lán bắc tạm nằm la liệt binh lính, thậm chí cả Liễu Không cũng đã nôn mấy bận.
“Truyền tin chưa?” Đàm Đài Hổ trắng bệch mặt hỏi.
Dư Tiểu Tái vỗ chân đen đét: “Biết thế nào được!”
Đừng nói là xếp hàng, lúc này muốn tập hợp một tiểu đội còn đứng nổi cũng còn khó ấy chứ. Đàm Đài Hổ dập một nửa số đuốc trong doanh để ngụy trang thành bộ dạng như lúc bình thường. Nhưng mí mắt hắn giật giật hoài, cứ cảm giác đêm nay có trá.
Liễu Không bảo Đàm Đài Hổ: “Người vận chuyển quân lương đều là người mình, dọc đường không thể xảy ra chuyện gì được. Chúng ta ăn gạo mì suốt một tháng mà có làm sao đâu, tự dưng lại có vấn đề đúng đêm nay…”
Đàm Đài Hổ nghiến răng: “Chắc chắn trong quân có gián điệp của Khuất đô.”
Tuy Dư Tiểu Tái đã cố hết sức né cái đề tài này ra, nhưng hiện giờ, trong toàn bộ doanh trại chỉ có mình hắn là không sao. Lưng hắn rịn mồ hôi lạnh, đã nghĩ đến ý đồ của đối phương là gì rồi. Đầu hắn xoay tít mù, sắc mặt vẫn không biến, chỉ nói: “Trước mắt mình đừng tự loạn, vạn nhất——”
Hắn còn chưa nói hết cái vạn nhất này đã nghe thấy tiếng vó ngựa phi tới từ phía Tây doanh. Lính trên chòi canh đánh trống báo động, trong chớp mắt hai chữ “địch tập” quét qua toàn doanh trại.
Liễu Không “A” một tiếng, hốt hoảng kêu: “Tướng quân!”
Đàm Đài Hổ bỗng đứng dậy, lồng ngực phập phồng, sau đó kéo lấy những người lính trong tình trạng khá hơn chút đỉnh ra hô: “Xếp hàng!”
Đô quân lấy khinh kỵ làm tiền đạo, vừa có thể đánh úp, lại vừa có thể thám thính thực hư tình hình, nếu quân phòng vệ chỉ đang giăng bẫy để dụ địch thì bọn chúng có thể lập tức rút lui.
Khinh kỵ đô quân ùa tới từ đằng Tây, trống trên chòi canh sắp giã nát đến nơi rồi. Đàm Đài Hổ vung tay quát: “Cung thủ!”
Quân phòng vệ Đôn châu phải thường xuyên đụng mặt với kỵ binh Biên Sa, để đối phó với kỵ binh Biên Sa, Đàm Đài Hổ đã đổi đại cung dùng trong quân thành cường cung chuyên dụng của thiết kỵ Ly Bắc, mấy lần xuất chiến đều mang lại hiệu quả vượt trội, song lúc này, chẳng còn mấy binh lính có thể kéo nổi cung.
Cung tên không thể tiêu diệt hết khinh kỵ, đối phương đã biết quân phòng vệ Đôn châu đang đuối sức. Bộ binh bọc hậu vác lá chắn xông tới, khôi giáp lập lòe sáng loáng dưới ánh trăng, đây là những trang bị tinh xảo nhất của tám đại doanh.
Một loạt hàng rào gỗ bị xô tan tác, quân phòng vệ thậm chí còn chẳng chạy kịp. Đàm Đài Hổ tuốt đao nghênh chiến, còn chưa chờ được bộ binh của đô quân, khinh kỵ đã vọt tới trước mắt. Hắn ngửi thấy mùi thuốc súng, lòng bỗng lạnh ngắt, thoắt lăn một cái
Hỏa đồng tức khắc nổ đoàng, tia lửa văng tung tóe.
Đàm Đài Hổ ôm đầu né, nhưng hai tay bị lửa sượt qua rát đau điếng. Hắn quặp tay thở phì phò.
“Ai chịu đầu hàng đêm nay, hoàng ân mênh mông, triều đình tất không truy cứu tội ác tày trời của chư vị.” Thiệu Thành Bích đánh ngựa vào doanh, “Ba mươi vạn quân phòng vệ Khải Đông đã vượt Thiên Phi Khuyết, Thẩm thị tạo phản thất bại đã rơi vào đường cùng, lão hủ xin khuyên chư vị một câu, nhân lúc chưa muộn hãy đầu hàng đi!”
===

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.